Trong
hội thi báo cáo viên giỏi, Nhân thực hiện cuộc vận động "Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" năm 2007 của Chi nhánh NHNo&PTNT
Thăng long. Một thí sinh gái, nhỏ tuổi nhất hội thi đã gợi nhớ cho tôi một câu
chuyện tuy xưa nhưng day dứt lòng người: Năm ấy, giặc Mỹ đánh phá Hà nội ác
liệt lắm. Mùa nước nổi, sông Hồng vượt bờ quai, trên mức báo động 3. Chỉ một
quả bom thù trúng đê, thì cả Hà nội sẽ chìm trong biển nước. Các đ/c Trung ương
khuyên Bác đi sơ tán, bởi Chủ tịch phủ chỉ cách một con sóng Tây hồ là tới mép
nước bờ đê. Bác trả lời: Tôi không bỏ Dân
đâu!...
Người
không bỏ Dân, sao dân nỡ bỏ người. Dân nguyện cùng Người … Kết thúc bài thi,
rất tự nhiên, Bé cất lời ca nho nhỏ. Đôi mắt bé dần đỏ hoe theo lời ca mỗi lúc
mỗi rõ ràng hơn: Chuyện kể rằng trước lúc người đi xa…Bác muốn nghe một câu hò…
Khi Bé ra đời, Bác Hồ chỉ còn trên sách vở, vậy mà khi cất lời ca: Người nghe
có cảm giác, y như "em gái nhỏ năm ấy” bước vào căn phòng nức nở ca, nuốt
từng "lời Bác dặn trước lúc đi xa". Bé ơi! Phải chăng niềm tin mang
sức thần cảm hoá, hay Bác đang về trong mỗi trái tim ta..? Cả hội trường lặng
đi vì xúc động ... Không chỉ tôi mà nhiều người trong khán phòng hôm ấy đã rơi
lệ.
Nhớ thời
còn đánh giặc, khi Thủ đô mới giải phóng, tôi mới lên 7 tuổi, và cũng từ đó,
nghe nói có một "Bác Hồ" được mọi người tin yêu. Thế rồi, cứ vào mỗi đêm
mùng một tháng 9 hàng năm, ngó trước, nhìn sau... trộm viên gạch chân tường Văn
miếu, chen chúc cùng bạn bè giữ chỗ, tranh nhau canh những viên gạch cho tới
sáng để ước gì: trong đoàn quân duyệt binh rầm rập, đều tăm tắp sáng mai có Bác
Hồ đi qua…
Những năm ấy, cứ đến giờ khắc giao thừa, dòng
người đón xuân quanh Hồ gươm đông như kiến hội, bỗng dừng lại, im phăng phắc,
lắng tai... tiếng loa trên cây vọng từng lới chúc ấm áp của Người, như thể đón
nhận không gian mới đầy hạnh phúc tràn về.
Giờ phút
thiêng liêng ấy, tôi áp tai bên ống nghe "Ga len" (một loại thiết bị cổ, tự chế để nghe Radio
thời đó), nuốt từng lời chúc của Người như uống từng dòng sữa Mẹ.
"Miền nam là máu của máu Việt nam, là thịt của thịt Việt nam, sông có thể
cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi..."
Dời ghế
trường cấp III Nguyễn Huệ (Hà đông),
anh em tôi mang dòng sữa ấy vào chiến trường khói lửa, thắng không kiêu, bại
không nản, quyết xả thân vì non sông đất nước, theo lời Bác dạy kính yêu.
Sau ba
đợt tấn công của chiến dịch Mậu thân 68, không chiếm được Sài gòn. Đầu 69, Địch
phản công lại dữ dội. Hầu hết đồng bào ta bị gom vào Ấp chiến lược. Các đơn vị
chủ lực lớn của ta bị đẩy lên sát rừng biên giới Việt Miên. Số ở lại chỉ là rất
ít cấp tiểu đoàn hoặc đại đội độc lập, cùng du kính quân ẩn náu trong dân hoặc
rừng ven đô bí mật bất ngờ đánh nhỏ lẻ. Cuối năm 69, các ngả đường tiếp tế từ
biên giới Bù đốp , Bù đăng xuống Đồng xoài, Phước Vĩnh chúng tôi bị Biệt kích
Mỹ phong tỏa hoàn toàn. Trong lúc Địch tìm diệt ráo riết thì cái đói khủng
khiếp lại ập đến. Một lần trinh sát phước Vĩnh quay về, chúng tôi gần như ngất
xỉu, khi nghe tin "Bác" đã đi xa. Tôi ngả mình dài trên một thân cây đổ,
buông cây súng vô hồn, thẫn thờ bâng quơ nhìn
trời xanh, mấy cành cây xơ xác lá, ngẩn ngơ như mất đi thứ gì quý giá nhất trên
đời. Dưới cái nắng nung người, nồng nặc mùi lá khô vì chất độc diệt cỏ càng làm
cho nỗi buồn thêm tê tái. Thiếu cơm, đói muối lâu ngày, gối chân rã rời. Mặc
cho cây súng trượt sõng soài dưới đất, tôi buột miệng kêu: Mẹ ơi!.... Nghĩ đến,
Miền Bắc quê tôi! đã xa, càng xa vời vợi. Tự hỏi lòng rằng ngày về còn nữa
không em? Chợt nhận ra tiếng than ấy có thể làm đột quỵ anh em, tôi vội lảng
sang chuyện khác. Hỏi "Củ" luộc có còn không?. Tớ đói quá…
...
Chuyện buồn mãi, cho đến một ngày… Lễ tang Bác được cử hành trọng thể tại Hà
nội. Chiến khu "Đ" cùng cả nước nín thở lắng nghe Di chúc của
"Người", do Tổng bí thư Lê Duẩn nghẹn ngào lời điếu văn tiễn biệt.
Một tia sáng, dù chỉ rất nhỏ nhoi, thấp thoáng xuất hiện cuối "đường hầm
69". Chúng tôi chợt nhận ra. Thì ra, Bác đã đi xa, nhưng Đạo đức trong
sáng, ý chí và nghị lực của Người vẫn còn nguyên đây đó. Quan trọng hơn là điều
ấy đã thật sự thấm sâu vào từng con tim, khối óc của từng đồng chí trong BCH
Trung ương lúc bấy giờ, củng cố lại niềm tin "Tất thắng" cho toàn thể
quân và dân hai miền Nam, Bắc quyết chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, dành độc
lập, tự do. Vâng! Những cơn sốt rét thâm môi, tím mắt, cái đói cồn cào quặn
thắt từng cơn, cái chết chỉ cách nửa sợi tóc kề bên. Còn nữa, với sự cám dỗ vật
chất của kẻ thù vẫn mời mọc từng đêm. Chúng tôi quyết không đảo ngũ,"Chiêu
hồi", đầu hàng hay phản bội. Chúng tôi tiếp tục đánh và đánh còn hay hơn
trước... Ấy...Chính là đức tin vào con Người Việt nam trong sáng ấy! Sự trong
sáng của Người khiến những người “có học” ở phía bên kia chiến tuyến cũng phải
nghiêng mình bái biệt. Suốt ngày tang lễ, không một tiếng súng nào của địch bắn
qua.
Đức tin ấy là điểm tựa vững chắc nhất giúp
chúng tôi giành lại từng thế chủ động trên chiến trường Đông nam bộ lúc bấy
giờ. Thế rồi ngày 30 tháng 4 năm 75, đời việc gì đến đã đến. Ước vọng và lời
chúc của Người thành hiện thực, Bác ơi!...Cả nước như trẻ thơ, vui, hò, reo
ngập tràn đại thắng. Sài gòn tưởng như Bác tiến về cùng những canh quân ta.
...Hoà bình lập lại, giang sơn gấm vóc ta đã
gom về một mối. Noi gương "Người", cả nước quyết xây dựng một con
"Rồng" Việt nam mới. Chỉ hơi tiếc rằng, có một thời... mình quá say
"Cộng trạng"...mà sao lãng lời dạy của Người, coi nhẹ lợi ích
"trồng người". Để những bóng ma "Bá Kiến, Chí phèo" lại
chập chờn quay về nhạo báng cảnh trái ngang.
...Giờ đây,
xem lại những thước phim đẫm lệ lễ tang Người, tôi bồi hồi, xúc động, không chỉ
muốn khóc mà còn muốn ước... Nếu được ước thì: ước gì non sông bất khuất VN ta
lại sớm sinh ra một người con đức, tài
như thế, một BCHTW như thế, để hàn vá lại nóc nhà truyền thống đạo đức, để
lấy lại niềm tin "nói và làm" như thế. Và ước gì cái đó lại thấm sâu
vào từng con tim, khối óc của mỗi chúng ta như thuở nào Bác mới "đi
xa". Thế thì "bầy sâu" còn đâu nơi ẩn náu. Cuộc mưu sinh đâu còn
tới độ nhọc nhằn thâu đêm nơi góc chợ, mom sông. Những thế lực "cơ hội" đâu còn
nơi chọc ngoáy khối đại đoàn kết dân mình.
Có một
thời ta đã sống như Người. Đến nay, tại sao ta không thể làm như Người, để tình
đồng chí, nghĩa "Đồng bào" lại mặn nồng như Bác thuở nào vẫn sống ở
trong ta?
Vẫn biết rằng, tạo hóa sinh ra loài
người với trí thông minh càng tuyệt vời bao nhiêu thì lòng tham càng "vô
đáy" bấy nhiêu. Thế gian này biết bao những Thánh nhân cả đời dày công tìm
tòi cái gọi là để "tiết chế" lòng tham vô đáy ấy. Nhưng xem ra còn
nhiều điều phải bàn lắm...
Lòng yêu nước thương dân và Tấm gương đạo đức
trong sáng của Người, phải chăng cũng là "một lời giải" cho bài toán
cực khó ấy? nếu Được vậy thì quý biết bao. Dân giàu, nước mạnh... ngoại xâm
vắng bóng. Tổ quốc vững bền, hòa bình muôn đời mãi mãi Việt nam ta./.
Vui cùng Xuân Giáp Ngọ. Bấm vào đây Xuân tặng Anh 2014 để chúc nhau nào đồng đội ơi: